Hướng dẫn FAQ Hỗ trợ: 0973 686 401
Nền tảng học Online#1 cho HS Tiểu Học

Cảm nhận bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu

06/09/2016 21:13

 » Về người con gái trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
 » Để có một mở bài hấp dẫn cho bài văn nghị luận xã hội
 » Quan điểm sáng tác của nhà thơ Chế Lan Viên
Xuân Diệu là nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Diệu là khúc hát nồng nàn, tha thiết về tình đời, yêu người được thể hiện qua những cách tân nghệ thuật nhiều mới lạ. Và có lẽ bài “Vội Vàng” bộc lộ đầy đủ nhất tình yêu mãnh liệt cuộc sống, mùa xuân và tuổi trẻ của Xuân Diệu. Đối với bài thơ này, học sinh khó phân tích, cảm nhận nội dung cũng như nghệ thuật, bởi nó mang trong mình nhiều thi liệu và triết lí mới mẻ. Bài viết này, sẽ giúp ích các bạn rất nhiều cho việc phân tích

            “Vội vàng” rút trong tập “Thơ thơ” (1938). Xuân Diệu là nhà thơ khát khao giao cảm với đời đến cuống quýt, cuồng nhiệt. Bài thơ “Vội vàng” tập trung cao nhất cái khát vọng mãnh liệt ấy. Xuân Diệu đặt khát vọng giao cảm giữa tuổi trẻ và xuân tình, qua đó bộc lộ một xúc cảm triết học, một quan niệm nhân sinh mới mẻ, hiện đại.

            Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám dù nhiều khi mang cảm xúc mãnh liệt đến cường tráng vẫn gây cảm giác chênh vênh, hụt hẫng. Bởi tình yêu luôn gắn bó với nỗi đau, niềm vui song song với nỗi buồn. Bằng cái nhìn mổ xẻ, ta cũng thấy lòng khát sống, ham đời trong “Vội vàng” bị chẻ đôi thành hai bậc: một cách cảm thụ thế giới mang tính bi kịch và một cách ứng xử trước thế giới mang tính tích cực.

            Một bi kịch sự sống: Trong sự cảm thụ thế giới của Xuân Diệu, cuộc sống được phát hiện ở tính bi kịch. Bi kịch này là sự giằng xé giữa tình yêu và nỗi đau, giữa cảm xúc và nhận thức.

            Trước hết là một tình yêu cuộc sống đến kì lạ. Tình yêu này tràn ngập trong “Vội vàng”. Có một câu hỏi lớn từng thôi thúc loài người tìm lời giải đáp: Vẻ đẹp cuộc sống ở đâu? Đạo Thiên Chúa tìm vẻ đẹp ở thiên đường cao cả. Đạo Phật tìm vẻ đẹp nơi cõi Niết Bàn bình an. Còn Xuân Diệu, thiên đường nằm ngay trên mặt đất:

Của ong bướm này đây tuần trăng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

            Trong cảm thụ độc đáo của Xuân Diệu, cuộc sống giống như thần Vui đến gõ cửa mỗi ngày. Thế thì hãy reo lên mà đó nó. Điệp ngữ “này đây” lặp bốn lần là tiếng reo vui đầy kinh ngạc của tác giả vì liên tiếp nhận ra những vẻ đẹp kì lạ của cuộc sống. Sau mỗi tiếng reo vui, cuộc sống hiện ra, giản dị mà say đắm: cái đắm say tình tứ của ong bướm, yến anh; Cái đắm say bát ngát sắc xanh của đồng nội; cái đắm say non tơ của cành lá... từ những hình ảnh cụ thể, tiếng reo vụt lên một cảm xúc lạ lùng và tổng hợp trước thiên nhiên:

                                  Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Câu thơ đặc sắc lấp lánh ba vẻ đẹp độc đáo. “Tháng giêng” là khởi đầu của một năm, khởi đầu của mùa xuân – mùa xuân tươi non mơn mởn là biểu tượng vẻ đẹp cuộc sống. Hình ảnh “cặp môi gần” gợi làn môi tươi hồng của thiếu nữ đang hé mở đợi chờ. Phép so sánh đã hội tụ mùa xuân với tuổi trẻ thành vẻ đẹp tổng hợp của cuộc sống. Quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu đã đưa cặp môi của thiếu nữ vào trung tâm vũ trụ, con người thành chuẩn mực vẻ đẹp của thiên nhiên. Một Xuân Diệu táo bạo, mới lạ nữa xuất hiện trong từ “ngon” đầy cảm giác nhục thể, tình yêu cuộc sống được huy động cả linh hồn lẫn thể xác. Vẻ đẹp của khổ thơ thật trẻ, thật nồng.

            Thơ Xuân Diệu không bao giờ bình yên vì tình yêu luôn vấp phải nỗi đau. Mạch thơ vui đang dào dạt chảy bỗng vấp phải một dấu chấm giữa câu thơ:

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

            Bi kịch cuộc sống dồn tụ trong câu thơ. Bi kịch xuất phát từ một phát hiện triết học về thời gian:

Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua

Xuân còn no, nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

            Đây là quan niệm chưa từng có trong cái nhìn truyền thống. Thời gian trung đại vốn được quan niệm là thời gian tuần hoàn, thời gian lặp lại tuần tự (Tháng chạp là tháng trồng khoai – Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà). Nhịp thời gian muôn đời không đổi tạo nên thế, quân bình nội tâm khiến con người ung dung, bình tĩnh đến chậm chạp. Thời gian hiện đại khác hẳn, là thời gian tuyến tính (một đi không trở lại), nên thời gian tự hủy diệt trong lẽ tồn vong ngắn ngủi, gấp gáp. Nhận thức ấy được Xuân Diệu thể hiện bằng những cặp từ tới – qua, non – già... cuộc sống vận động phát triển trong quá trình vừa khẳng định vừa phủ định, cái phủ định nằm ngay trong cái khẳng định. Đây là những nghiền ngẫm triết học đầy tinh tế và có chiều sâu, thỏa mãn những nhu cầu trí tuệ của người đọc (nhất là người đọc trẻ tuổi ham hiểu biết thơ Xuân Diệu). Chỗ bất cập trong thơ Xuân Diệu là thi sĩ quá nghiêng về cái “qua”, cái “già” (tức là cái phủ định) nên quan điểm sống của Xuân Diệu có phần thiếu bình tĩnh, mà hơi ngả về phía “vội vàng” đến hốt hoảng, cuống quýt, tạo nên hơi thở gấp gáp rất riêng trong thơ Xuân Diệu.

Vì vậy, bi kịch trong nhận thức tràn vào tâm hồn , Xuân Diệu nhìn đâu cũng thấy mất mát, cũng thấy chia ly:

Mùi tháng năm đang rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt

Nỗi đau thấm cả vào cơn gió, tiếng chim, nhưng đau nhất là tuổi trẻ đang khát khao sống mãnh liệt:

Nói là chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

            Nhìn tổng thể, nỗi đau vừa tương phản với tình yêu để tạo thành bi kịch, vừa là kết quả của tình yêu. Bởi vì, nếu không biết yêu cuộc sống tha thiết, sâu sắc đến thế, làm sao biết xót đau khi hiểu rằng thời gian luôn chảy trôi, không có gì bền vững, nhất là sự hữu hạn của mùa xuân, tuổi trẻ, kiếp người. Cho nên “vội vàng” là nỗi đau lớn của một tình yêu lớn.

            Một thái độ tích cựa trước cuộc sống: trước sự phát hiện tính bi kịch của thời gian, cuộc sống, Xuân Diệu tìm ra hai cách giải quyết riêng của thi sĩ.

            Bốn câu thơ ở khổ 1 là một khát vọng chống lại quy luật tự nhiên: “Tôi muốn tắt nắng đi – Cho màu đừng nhạt mất – Tôi muốn buộc gió lại cho hương đừng bay đi”. Đây là khổ thơ duy nhất Xuân Diệu dùng thể ngũ ngôn để tạo một giọng điệu gọn, chắc, thể hiện ý chí mạnh mẽ muốn chặn đứng bước chân thời gian. Nhưng ý chí chủ quan sao thắng được quy luật khách quan. Vì thế, hơi thở mạnh mà bên trong vẫn hẫng hụt, bất lực...

            Nhưng Xuân Diệu đâu có chịu bó tay. Phải tìm một cách khác: hãy tận hưởng cuộc sống. Đó là nội dung chủ yếu của đoạn kết:

Ta muốn ôm – cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi hương

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng – ta muốn cắn vào ngươi!

Hệ thồng từ: ôm, riết, say, thâu, cắn là một trường cảm xúc ngày một dâng trào, bộc lộ một khát vọng sống mãnh liệt. Trái tim yêu của Xuân Diệu như muốn căng ra chứa hết vũ trụ. Câu kết bài thơ đẹp rực rỡ. Cuộc sống mơn mởn, tròn căng hấp dẫn như trái xuân hồng. Thi sĩ ước vọng được “cắn” vào quả đời ấy để tận hưởng một cách nhục cảm, hết mình hương vị cuộc sống. Chỉ có Xuân Diệu mới tạo ra kiểu cảm xúc táo bạo, mới lạ mà tinh khiết như thế.

            Sau cái tựa đề “Vội vàng” kia, ta gặp hai Xuân Diệu, một Xuân Diệu – tình nhân cuồng nhiệt và cường tráng của cuộc sống trần gian với một quan niệm nhân sinh mới mẻ, một Xuân Diệu – thi nhân với trí tưởng tượng táo bạo, mới mẻ, rạo rực như cặp môi thiếu nữ, mơn mởn tròn căng như trái xuân hồng, mang một quan điểm mĩ học thật hiện đại.

(Mod Văn)

Mod Văn